Các lý thuyết Động vật trong Phật giáo

Cội gốc

Một con hổ con đang nghe tụng kinh tại Chùa Hổ, Thái Lan

Thuyết vật linh và thuyết hình người là phổ biến trong những người Ấn Độ cổ đại. Động vật được xem như là một hiện thân của thần linh, hay những vị thần của chính tổ tiên, một số bản kinh Phật giáo sơ kỳ cho thấy rằng động vật chia sẻ bản chất tôn giáo của con người, mà những hiện tượng được quán sát như vậy là rõ ràng về sự liên kết giữa con người, muông thú và thần linh. Quan điểm của Phật giáo về luân hồi ngang qua các loài sống làm giảm khoảng cách tinh thần giữa con người và động vật. Phật giáo đã chế định những giới luật quan trọng mà chúng khẳng định rằng giết hại những chúng sanh khác là một sự vi phạm những quy tắc đạo đức cơ bản nhất của vũ trụ. Giới đầu tiên là cam kết tránh hủy hoại đời sống. Những Phật tử thời kỳ đầu chấp nhận quan điểm rằng tất cả muông thú thuộc về một lãnh vực mà nó thấp hơn lãnh vực của con người.[2]

Trong lịch sử Ấn Độ, những vị thần muông thú có trước những vị thần hình nhân (thần dạng người lai thú). Trong suốt thời kỳ Mauryan, những bức tượng hoàn toàn thuộc về thế giới muông thú. Trong thời kỳ theo sau, hình ảnh tập trung nhiều vào muông thú hơn là con người. Muông thú chiếm ưu thế như là đặc điểm trong các câu chuyện Jātaka và những vị anh hùng không phải con người mà là muông thú. Nhân loại nhận nước từ một con rắn, lửa từ một con ếch và giấc ngủ từ một con thằn lằn. Những muông thú mà chúng được khắc họa trong văn học và nghệ thuật Phật giáo luôn là những động vật có tốc độ và sức mạnh ấn tượng như ngựa, trâu, hươu, cọp, sư tử, gấu, tê giác. Nhưng động vật cũng có thể được đề cập như Bồ-tát chỉ bởi vì chúng đầy những bí ẩn.[2]

Bàng sanh

Bàng Sanh (tiếng Phạn: तिरश्चीन/Tiro añjantīti hay Tiracchāna) có nghĩa là chúng sanh đi bằng chiều ngang hay còn hiểu đơn giản là thuyết Chúng sinh bình đẳng. Chiết tự Bàng sanh theo văn phạm Pāli là từ Tiracchāna nếu chiết tự là Tira añjayu (ana) hoặc āna tira là upasārapada añja là ngữ căn, yu(ana) hay là āna là tiếp vĩ ngữ. Tiracchānayoni, Tiracchānaṃyoni tức sanh loại của Bàng sanh gọi là Tiracchānayoni hay Tiracchāna-yoni (tiếng Tây Tạng: dud 'gro; tiếng Nhật: 畜生/chikushō), Yoni là sanh loại, vì các loài Bàng sanh này không có trú xứ riêng mới gọi là Tiracchānayoni.

Đây là một trong những triết lý của Phật giáo thể hiện sự bình hòa giữa muôn loài hay quần sanh. Theo đó, chúng sanh nào không thể đắc đạo quả mà có sự đi ngang, gọi là bàng sanh. Tất cả chúng sanh như nhân loại thường đi bằng chiều cao, tức đầu hướng lên trên, còn "Bàng sanh" thì khi đi với chiều ngang, tức hai tay dùng làm chân, đầu đặt về phía trước và khom xuống phía dưới. Đối với loài chim, tuy có hai chân như người, nhưng lúc đi thân không đứng thẳng, gần như cũng khom bằng chiều ngang nên cũng gọi là bàng sanh.

Bàng sanh có hai loại: loại thấy được bằng mắt thường, và loại mắt thường không thấy được. Nghĩa là Bàng sanh này có loại rất to lớn và loại rất nhỏ bé. Trong tất cả loài Bàng sanh này có cả thảy bốn loại, chia theo chân:

  • Dvipadatiracchāna: loại Bàng sanh có hai chân như chim, công, gā và tương tự
  • Catuppadatiracchāna: loại Bàng sanh có 4 chân như bò, trâu, ngựa và tương tự
  • BahupPādatiracchāna: loại Bàng sanh có nhiều chân như rít, cuốn chiếu và tương tự
  • Apadatiracchāna: loài Bàng sanh không chân như rắn, trùng, cá và tương tự

Các loại Bàng sanh trên khác nhau chỗ nương, tức có loại nương trên đất, có loại nương trong nước. Nhóm sống trong nước nhiều hơn nhóm sống trên đất. Như sách Ekaṅguttara có nêu rằng: (Phạn văn) "Appakā bhikkhave te sattā ye thalajā atthakho eteva sattā bahutara ye odakā". Dịch nghĩa: "Này Chư Tỳ khưu! Các chúng sanh nào sanh trên đất. Các chúng sanh ấy có số lượng ít, các chúng sanh nào sanh trong nước, các chúng sanh ấy có số lượng nhiều hơn".

Chúng sanh trên đất có số lượng ít, chúng sanh trong nước có số lượng nhiều, không ám chỉ loại bàng sanh cụ thể mà chỉ nêu chung tất cả chúng sanh hiện hữu trong cõi người, và không hạn định rằng, chúng sanh ở trên đất hay trong nước có số lượng là bao nhiêu. Tất cả chúng sanh trên đất và trong nước thì vô hạn lượng (Ananto), theo đó đã xác chứng trong Manorathapūraṇì aṅguttara aṭṭhakathā rằng tất cả chúng sanh sống trong cõi người vô lượng, nhưng chúng sanh sống trong nước thì nhiều hơn.

Bản sinh kinh

Những câu chuyện tiền thân Bản sinh kinh (còn có tên gốc là Jātaka) của Phật giáo trình bày một quan điểm thuyết hình người về động vật, cho thấy những phẩm chất người thật sự của chúng, vừa tốt vừa xấu, vừa anh hùng vừa độc ác. Những câu chuyện tiền thân bao gồm nhiều loại truyện, từ những truyện ngụ ngôn muông thú đơn giản, đến những câu chuyện muông thú từ bi. Tất cả chúng sanh được cho thấy là những vị Phật và Bồ-tát sẽ thành từ Vi trùng, chim sẻ, chó, khỉ, ngựa, cá heo, con người. Trong tài liệu này, ghi nhận các trường hợp hóa thân cứu thế của Bồ Tát như:

  • Khi là một hươu chúa, Bồ-tát đã hy sinh mạng sống của mình để giải cứu tất cả sinh vật ra khỏi hiểm nạn. Trong Jātaka Nandimagga là một câu chuyện về một con hươu đã không sợ hãi đối mặt với một vị vua đang săn bắn, bằng cái nhìn bất động của mình, nó đã thay đổi tâm của vị vua và cứu những con thú khác.
  • Khi làm một con khỉ thì đã cứu một kẻ thợ săn vô ơn. Trong Jātaka Mahakapi, một con khỉ cứu sống bộ tộc của nó bằng việc sử dụng thân thể của mình như một phần của một chiếc cầu cho bầy khỉ vượt qua sông Hằng.[2]
  • Khi làm một con sư tử thì đã cứu tất cả những con thú hoảng sợ khỏi nỗi sợ hãi
  • Khi làm một con vẹt thì đã bất chấp tính mạng bay qua ngọn lửa để cứu tất cả những kẻ bị mắc kẹt trong một khu rừng đang cháy.
  • Khi làm một con voi thì đã hy sinh đời mình để những kẻ sắp chết đói có thể sống. Trong kinh Pháp cú, câu chuyện về Dhanapalaka, một con voi chịu nỗi nhớ nhà sau khi bị tách ra khỏi mẹ của nó. Con voi bị bắt giữ đã từ chối thức ăn. Trong Abhaya-dana (vô úy thí) theo một truyền thống Phật giáo, Abhaya-mudra được nói là đã bắt nguồn từ cử chỉ mà Phật thể hiện khi bị con voi say Nalagiri do Đề Bà Đạt Đa chủ mưu thả ở trên đường đe dọa.[2]
  • Khi là một vị vua thì đã dâng thịt của chính mình để cứu một con chim bồ câu. Một vị vua lý tưởng ở trong kinh Cakkavattisihanada, nên bảo vệ không chỉ con người, mà cũng cả thú rừng và chim chóc.[2][3]
  • Khi làm một vị thái tử đã hy sinh mạng sống của mình để một con cọp mẹ và bầy cọp con sắp chết đói có thể sống. Phật là tấm gương về việc xả thân cứu độ loài vật, Phật đã hy sinh thân mạng của mình để cứu sống một con cọp cái và hai con cọp con đang đói, bị mắc kẹt trong tuyết.[3]

Ăn chay

Một món chay

Trong Phật giáo luôn giữ ăn chay hoàn toàn là một điều tự nhiên và hợp lý về giới luật không giết hại. Giới Bồ Tát cũng nói rõ cấm ăn những thức ăn không phải thực vật. Ma Ha Ca Diếp hỏi Phật "tai Sao Như Lai không cho phép ăn thịt?" Đức Phật trả lời: "Bởi vì ăn thịt làm cắt đứt hạt giống từ bi." Theo Phật giáo thì trên cơ thể một con vật có hàng trăm ngàn, thật ra là nhiều triệu sinh vật nhỏ nhít. Những sinh vật này là những phần nhỏ của con vật trước đây. Linh hồn của con người lúc chết có thể chia chẻ ra thành nhiều con thú vật.

Một người có thể trở thành mười con thú vật. Bởi vậy thú vật rất ngu si. Linh hồn của thú vật có thể chia chẻ và khi phân chia đến mức nhỏ nhất có thể trở thành một vi sinh thể hay cây cỏ. Những cảm thọ cây cỏ có lúc đó là những gì tách ra từ linh hồn của con vật lúc chết. Mặc dầu sanh mạng của một số lượng lớn cây cỏ có vẻ rất lớn, nhưng không lớn bằng một con vật hay một miếng thịt ăn trong miệng, còn muỗi thì hàng triệu còn muỗi trên núi này có thể đơn giản là linh hồn của một người bị chuyển hoá thành những con muỗi này. Một người có thể chuyển thành vô số con muỗi.

Trong Vaṇijjāsuttaṃ của Tăng Chi Bộ Kinh (V, 177), có ghi loằng ngoằng như sau: "Bhikkhave Pañcimā, vaṇijjā upāsakena akaraṇīyā/Katamā Panca: Satthavaṇijjā, sattavaṇijjā, maṃsavaṇijjā, majjavaṇijjā, visavaṇijjā/IMA kho bhikkhave, Panca vaṇijjā upāsakena akaraṇīyāti". Tạm dịch: "Này, các nhà sư, một cư sĩ không nên chạy theo vào năm thứ bán buôn. Thế nào là năm thứ? Bán buôn võ khí, bán buôn con người, bán buôn thịt thà, bán buôn thuốc nghiện, và bán buôn chất độc. Đây là năm loại bán buôn mà cư sĩ không nên can dự"

Trong Kinh Jivaka Sutta nổi tiếng Đức Phật chỉ rõ ra những điều kiện mà tăng sĩ có thể hoặc không nên chấp nhận thịt: "Jivaka, Ta nói rằng thịt có ba trường hợp không nên dùng, khi nhìn thấy, nghe thấy hoặc khi nghi ngờ (có một con vật đã bị giết cho một tăng sĩ). Ta nói trong ba trường hợp này thịt không nên ăn. Ta nói, thịt có thể được ăn trong ba trường hợp, khi không nhìn thấy, không nghe và không có nghi ngờ gì cả." Do đó, Phật giáo Nguyên Thủy chủ trương rằng Tỳ kheo có thể chấp nhận thịt "tikotiparisuddha", có nghĩa là tinh khiết trong ba khía cạnh. Tỳ- kheo không tự mình giết con vật, không phải mình ra lệnh giết nó, và cũng không phải giết nó, đặc biệt là cho mình.

Tuy nhiên, những người xuất gia (tì kheo) nếu nghe tiếng con vật bị giết, thấy con vật bị giết hoặc nghi con vật đó bị giết để thết đãi mình thì không được ăn, nếu ăn thì sẽ phạm vào giới luật.[4][5] Ngoài ra đức Phật cũng cấm không được ăn 10 loại thịt: thịt người, voi, ngựa, chó, rắn, sư tử, cọp, báo, gấulinh cẩu. Đây không phải là sự kiêng kỵ riêng cho một số loài nào (như Hồi giáo kiêng thịt heo, Ấn giáo kiêng thịt bò) mà vì những lý do sau: Thịt người thì không thể ăn vì quá dã man; thịt voi và thịt ngựa vì trong thời kỳ đó, hai con vật này được coi là thú vật của nhà vua; thịt chó vì dân chúng thường coi chó là con vật ghê tởm; thịt rắn, sư tử, cọp, báo, gấu và linh cẩu vì người ta tin rằng ai ăn thịt những loài thú rừng nguy hiểm này sẽ toát ra một mùi đặc biệt có thể khiến cho các con vật đồng loại tấn công người đó để trả thù[6][7][8] Trong một số kinh sách tiếng Phạn (kinh Lăng Giàkinh Ðại Bát Niết Bàn)[9] của Phật giáo Đại thừa thì đức Phật dạy các đệ tử của mình không được ăn thịt cá.[10][11][12][13]

Phóng sinh

Phóng sinh rùa tai đỏ ở chùa Ngọc Hoàng

Nghi Lễ Phóng Sanh (Tsethar) là một cách thực hành của Phật giáo để cứu súc vật, chim chóc, cá khỏi bị giết hại hay giam nhốt vĩnh viễn. Chúng được thả vào một cuộc sống mới mẻ về thể chất và tâm linh. Nghi thức này là ví dụ điển hình về giáo pháp căn bản của Phật giáo là từ bi đối với tất cả chúng sanh. Một đệ tử của Phật phải duy trì tâm từ bi và tu hành hạnh giải thoát chúng sanh. Tất cả chúng sanh nam đã từng là cha của tôi và tất cả chúng sanh nữ đã từng là mẹ của tôi. Không có một chúng sanh nào mà không sanh ra tôi trong những kiếp trước, vì vậy tất cả chúng sanh trong sáu nẻo đều là cha mẹ của tôi. Vì vậy, khi một người giết và ăn thịt bất cứ chúng sanh nào, người đó đã giết hại cha mẹ tôi. Bất cứ khi nào vị Bồ tát thấy kẻ khác chuẩn bị giết một con vật, vị Bồ tát nên tìm một phương tiện khéo léo để cứu vớt và bảo vệ con vật đó, giải thoát nó khỏi sự đau khổ và khó khăn.[14]

Cấm sát sinh

Một con gà bị cắt tiết

Theo thuyết của Phật giáo thì theo tinh thần bình đẳng nên súc sinh cũng cần được tôn trọng do đó Phật giáo đề ra ngũ giới trong đó có quy định không sát sinh tức là không giết người và giết các loài súc sinh nói chung (bất tổn sinh hay bất hại). Đồng thời cũng có khi vì tế độ chúng sinh, Bồ Tát đôi khi cũng chuyển hóa vào hạng súc sanh. Như đức Phật Thích Ca từng sinh ra làm cá để cứu bịnh thời khí, làm công để thuyết diễn đạo lý, làm nai để tỏ cái đức từ bi cứu thế một số loài súc sinh biết giác ngộ sẽ trở thành cao quý như như những loài chim quý, lạ ở Cực Lạc thế giới, do sức thần thông của đức Phật A Di Đà mà hóa sinh để thuyết pháp cho các nhà tu học ở đó nghe.

Một số văn bản về sau có những bước đi dài hơn khi ghép những người hủy hoại những loại đời sống muông thú khác nhau dưới những tình huống khác nhau với những địa ngục tương xứng, thậm chí không được làm bị thương một con thú, một Tăng sĩ đào một cái hố và một con thú rơi vào trong đó, nếu con thú chết, tội buộc phải sám hối. Kinh Saddharmasm-tyupasthana, một bản kinh Sanskrit có niên đại thế kỷ IV-V TL. Theo văn bản này, thì:

  • Những người giết hại chim hay hươu mà không hối hận thì bị đọa vào một địa ngục thấp được gọi là địa ngục Phân dơ.
  • Những người nấu sống lạc đà, heo, cừu, thỏ, gấu, và những loài như vậy thì bị trừng phạt trong địa ngục Vạc nấu.
  • Những người mà đánh đập rùa hay bóp chết cừu thì bị đày vào địa ngục Tối tăm.

Theo Phật giáo nguyên thủy, trên thế gian, có hai loại nhân: một là nhân thiện, hai là nhân ác. Khi trồng nhân thiện thì gặt quả thiện, khi trồng nhân ác thì gặt quả ác. Nếuh tạo ra oan nghiệt, phạm đủ thứ lỗi lầm, thì tương lai sẽ thọ quả báo của địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Cái nhân ác lớn nhất là sát sinh. Con người nếu phạm Ngũ Giới (sát, đạo, dâm, vọng, tửu) thì sẽ rất dễ đọa vào ba ác đạo và cũng rất dễ thành kẻ đầy rẫy tri kiến sai lầm, tà vọng, không tin Phật Pháp, không kính Tam Bảo. Ðọa vào ba đường ác rồi thì khổ ải. Tội lỗi lớn nhất là sát sinh, ăn thịt. Nếu ăn thịt của người thì sau đó người sẽ ăn thịt lại. Hỗ tương ăn thịt lẫn nhau, hỗ tương chém giết, hỗ tương đọa lạc. Một khi đã đọa lạc thì khó mà tiến lên được, đó là điều hết sức nguy hiểm, là đi vào "hiểm lộ"[15].

Nghiệp chướng

Nghiệp của một chúng sanh trải từ sự hiện hữu này đến sự hiện hữu khác tùy thuộc nó thiện hay bất thiện. Sau khi chết, thân xác tan rã và một cá nhân tái sanh trong một trạng thái hiện hữu thỏa đáng (sugati) chẳng hạn là một con người nếu hành vi của nó là tương đối tốt hay một trạng thái hiện hữu đau khổ (duggati) chẳng hạn như một con thú hay thậm chí tệ hơn nếu hành vi của nó là xấu, những cá nhân mà họ đi cùng với đời sống này, thì nếu họ là những thợ săn tay đẫm máu, hay những tên trộm thì có khả năng tái sanh vào trong hình thức của một sinh vật vụng trộm hay bò trườn như một con rắn, một con bò cạp, một con rết, một con cầy mangut, một con mèo, một con chuột, một con . Theo cách khác một con thú có thể sanh làm một con người.

Muông thú cũng được Phật giáo xem như là chủ đề đối với nghiệp của họ. Một số lớn Jātaka coi nghiệp tốt và xấu được thực hiện trong quá khứ bởi những loại thú khác nhau. Những nghiệp này sau đó nối kết với hiện tại, những sinh vật tốt được nhận biết thông qua tiến trình tái sanh với Phật và những đệ tử của ông, còn những kẻ xấu với Đề Bà Đạt Đa và những người như vậy. Do đó, một người có thể sanh làm thú và ngược lại tùy thuộc vào nghiệp. Một câu chuyện về người là thánh nhập lưu (sơ quả A La Hán hay srota-aapanna) sanh vào một gia đình đồ tể. Người đó ở ngưỡng cửa tuổi trưởng thành. Mặc dầu người ta mong đợi anh sẽ tiếp tục theo nghề nghiệp của gia đình, nhưng anh không thể giết thú vật.

Cha mẹ anh đưa anh một con dao và một con cừu, nhốt anh vào trong một căn phòng và nói với anh: "Nếu con không giết con cừu, chúng ta sẽ không cho con ra ngoài để thấy mặt trời, mặt trăng hay cho con thức ăn, nước uống để được sống." Anh tự nghĩ: "Nếu tôi giết con cừu này, thì tôi sẽ [bị bắc buộc] theo nghề nghiệp này suốt đời. Làm sao tôi có thể làm tội ác đại ác này [chỉ ] vì cái thân này?" Sau đó anh cầm dao lên và tự sát. Cha mẹ của anh mở cửa để xem, thấy con cừu đang đứng cạnh anh [đang nằm] đã chết. Vào lúc đó, khi tự sát, anh được sanh lên cõi trời. Nếu người nào giống như vậy, thì đây là không màng sanh mạng [của chính mình] để giữ gìn [sự nguyên vẹn] của tịnh giới.

Tưởng Uẩn

Tưởng uẩn hay hay tưởng thức hay uẩn (Saṃjñā/sañña/saṅkhāra/行) là một trong những Ngũ giới có liên quan đến động vật. Saññā hiện khởi trong Tiracchānabhūmi, có ba loại saññā hiện khởi cho các loài bàng sanh là: Kāmasaññā (Biết hưởng dục), Gocarasaññā (Biết kiếm ăn), Maraṇasaññā (Biết sợ chết) và Dhammasaññā (Biết Pháp). Phần nhiều các loại Bàng sanh khác chỉ có ba loại tưởng. Trong ba loại saññā này, Maraṇasaññā (Biết sợ chết), là hiện khởi nhiều nhất cho loài Bàng sanh, vì sự nguy hại đến sanh mạng có rất nhiều đối với các loài bàng sanh, tức là thú nhỏ thường bị thú lớn bức hại, những con nhỏ tị thì thằn lằn, rắn mối ăn, mèo ăn thằn lằn, cọp ăn mèo.

Đây được xem là mối nguy hại giữa các loài Bàng sanh với nhau, ngoài ra còn có những mối nguy hại đến sanh mạng bằng cách khác nữa, như thiếu thốn, đói khát, vất vã khó khăn về chỗ ở và thường bị nhân loại bức hại do đó tuổi thọ loài bàng sanh rất ngắn ngũi, chỉ vài giờ, vài ngày, vài năm chẳng hạn như các loài chó có tuổi thọ từ 10-35 năm, bò, trâu, ngựa có tuổi thọ từ 20-30 năm cũng có, hoặc bằng loài người, voi có tuổi thọ từ 60-100 năm, không nhất định, tuổi thọ bàng sanh vô hạn định.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Động vật trong Phật giáo http://books.google.com/books?id=bXAUkoM0esMC http://books.google.com/books?id=lmqSoNsRSx8C http://www.webspawner.com/users/tathagatagarbha18/... http://www.buddhanet.net/budsas/ebud/ebdha069.htm http://www.budsas.org/uni/u-anchay/anchay06.htm http://www.serv-online.org/Eileen-Weintraub.htm http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-69_4-773_5-50... http://baodaklak.vn/channel/3522/201110/Hinh-anh-c... http://www.thanhnien.com.vn/van-hoa-nghe-thuat/su-... http://dlib.huc.edu.vn/bitstream/123456789/194/1/%...